Đề xuất cơ chế đặc thù phát triển ngành thép
Bộ Công Thương cho rằng phần lớn doanh nghiệp thép dùng công nghệ cũ nên sản xuất và cạnh tranh thấp, cần chính sách đặc thù để ngành này phát triển.
Trong báo cáo vừa gửi Thủ tướng, Bộ Công Thương cho biết giai đoạn 2016 – 2021 ngành thép phát triển nhanh nhưng mất cân đối giữa thượng nguồn và hạ nguồn. Sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm sau thép như tôn mạ kẽm, thép ống tăng trưởng tốt, còn thép hợp kim, cuộn cán nóng (HRC) vẫn phải nhập khẩu số lượng lớn.
Hiện năng lực sản xuất phôi thép của các doanh nghiệp trong nước là 27 triệu tấn một năm, trong đó thép cuộn cán nóng (HRC) khoảng 7-8 triệu tấn. Nhưng nguyên liệu sản xuất phần lớn nhập khẩu (như năm nay sẽ nhập hơn 18 triệu tấn quặng sắt, thép phế 6-6,5 triệu tấn, than mỡ 6,5 triệu tấn…) cho sản xuất. Điều này khiến năng lực cạnh tranh của ngành thép thấp, cung trong nước chưa đáp ứng đủ cầu. Doanh nghiệp trong nước cũng chưa sản xuất được các loại thép hợp kim đặc biệt.
Bên cạnh đó, ngành thép vẫn tồn tại nhà máy có công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường.
Hơn nữa, quy hoạch ngành thép đã được bãi bỏ theo Luật Quy hoạch 2017, thép cũng được đưa ra khỏi danh mục hàng hoá kiểm soát theo quy định Luật Giá 2012. Việc này khiến Nhà nước không có công cụ, khó đảm bảo quản lý cũng như không kiểm soát được năng lực sản xuất, cân đối cung – cầu sản phẩm thép trong nước…
Đặt trong bối cảnh tổng thể phát triển công nghiệp chế biến chế tạo, Bộ này đánh giá ngành thép giữ vai trò cung cấp nguyên vật liệu đầu vào quan trọng nhất cho các ngành sản xuất, chế tạo (cơ khí, đóng tàu, sản xuất ôtô xe máy, công nghiệp quốc phòng, khai khoáng, điện…). Song tới giờ không có chính sách đặc thù, riêng biệt, cũng như chiến lược phát triển rõ ràng thời gian tới.
Vì thế, theo Bộ Công Thương cần chính sách đủ mạnh để phát triển ngành công nghiệp thép trong nước thông qua một chiến lược với những chính sách đặc thù, cụ thể từng lĩnh vực, chủng loại sản phẩm…
Dự báo, tổng cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam đến 2030 có thể đạt 310 tỷ USD. Đây sẽ là thị trường rất lớn cho ngành thép trong nước, nhất là thép chế tạo, hợp kim chất lượng cao…
Vì thế, phác thảo chiến lược phát triển sắp tới cho ngành này, Bộ Công Thương cho rằng Việt Nam cần xây dựng các tổ hợp luyện kim quy mô lớn, tập trung sản xuất các loại thép có dung lượng thị trường lớn để bước đầu làm chủ công nghệ sản xuất. Từ đó tiếp tục sản xuất các mác thép đặc biệt, thép hợp kim chất lượng cao phục vụ đa dạng nhu cầu ngành cơ khí, chế biến chế tạo.
“Sản xuất thép trong nước phải đảm bảo tính chủ động, đa dạng chủng loại, như thép xây dựng, thép cán nguội, thép mạ kim loại… Chỉ nhập khẩu một số chủng loại trong nước chưa sản xuất được như thép hợp kim, chất lượng cao phục vụ công nghệ chế tạo, đóng tàu”, Bộ Công Thương nêu.
Với các sản phẩm như thép cuộn cán nóng (HRC), phát triển thêm các dự án sản xuất quy mô lớn do đây là loại thép chiếm tỷ trọng lớn trong ngành chế biến chế tạo.
Theo Bộ Công Thương, khu vực thích hợp phát triển các dự án thép lớn là vùng Duyên Hải miền Trung, nơi có nhiều cảng nước sâu, nguồn năng lượng tái tạo dồi dào, để tiêu thụ năng lượng tại chỗ và quỹ đất còn nhiều… Ngoài ra, còn có vùng Đồng bằng sông Hồng, nơi tập trung đông dân cư, nhu cầu tiêu thụ lớn và hạ tầng giao thông đường biển, đường bộ, đường sắt phát triển dù quỹ đất hạn chế.
Hiện, ngoài một số nhà máy công suất lớn thuộc Tập đoàn Hoà Phát hay Formosa, thép Nghi Sơn… phần lớn các nhà máy sản xuất phôi thép còn lại quy mô công suất nhỏ, công nghệ và thiết bị lạc hậu.
Nên trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển ngành thép, Bộ này cho hay sẽ xác định lộ trình xử lý, đề xuất các chính sách cụ thể với các nhà máy sản xuất thép sử dụng công nghệ lạc hậu, cũ; chính sách khuyến khích nhà đầu tư chuyển đổi sang công nghiệp sản xuất thép hiện đại, thân thiện môi trường.